Ngày 5/6/1959, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước (UBKHNN) đã Quyết Nghị thành lập Ban chấp hành Công đoàn lâm thời Uỷ ban Khoa học Nhà nước dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ Uỷ ban và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của Công đoàn các cơ quan Chính Dân Đảng Trung ương. Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ.
Trải qua hơn năm thập kỷ nỗ lực phấn đấu của các thế hệ cán bộ, công đoàn viên của các cấp Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và sự lãnh lạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy Bộ, lãnh đạo Bộ KH&CN, Công đoàn Bộ KH&CN đã từng bước phát triển đi lên, có những đóng góp xứng đáng trong việc định hướng tư tưởng và nâng cao đời sống của cán bộ, Công chức, Viên chức và người Lao động thuộc Bộ.
Hơn 50 năm, là một khoảng thời gian tương đối dài để chiêm nghiệm, nhận ra những điểm mạnh, tích cực cũng như hạn chế và khiếm khuyết trong quá trình vận động, phát triển, từ đó đúc rút những kinh nghiệm quý báu cho chặng đường tiếp theo.
Được sự đồng ý của Lãnh đạo Bộ KH&CN, Ban chấp hành Bộ KH&CN biên soạn cuốn Kỷ yếu “Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ 55 năm xây dựng trưởng thành và phát triển (1959-2014)”. Đây là cuốn Kỷ yếu phản ánh khái quát những chặng đường xây dựng và phát triển của Công đoàn KH&CN.
Cuốn sách được biên soạn trên cơ sở kế thừa nhiều nội dung, sự kiện của cuốn lịch sử truyền thống Công đoàn Bộ và báo cáo của Công đoàn Bộ KH&CN giai đoạn 2005-2015. Mặc dù các tác giả đã cố gắng, song cuốn sách không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được dự đóng góp ý kiến của cán bộ, đoàn viên các Công đoàn trực thuộc Công đoàn Bộ KH&CN nghệ để lần tái bản có chất lượng cao hơn.
Nhân dịp cuốn Kỷ yếu được xuất bản, Ban chấp hành Công đoàn Bộ KH&CN và tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ đạo, động viên các đồng chí lãnh đạo, Đảng ủy Bộ KH&CN, các đồng chí Ban chấp hành công đoàn trực thuộc Công đoàn Bộ đã tạo điều kiện giúp chúng tôi hoàn thiện cuốn Kỷ yếu này.
Đặc biệt, chúng tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc các đồng chí lãnh đạo và cán bộ của Công đoàn Bộ KH&CN qua các thời kỳ đã nỗ lực phấn đấu đóng góp vào sự phát triển của Công đoàn Bộ KH&CN trong 55 năm qua.
Ban chấp hành Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ NHỮNG NĂM ĐẦU HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG ĐOÀN BỘ KH&CN
1. Sự ra đời của Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa I ngày 29/4/1958 đã Quyết nghị thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước (UBKHNN) để giúp Chính phủ xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật. Quốc hội trong phiên họp ngày 14/12/1958 đã cử Phó Thủ tướng Trường Chinh kiêm chức Chủ nhiệm đầu tiên của UBKHNN.
Song song với việc xây dựng bộ máy của UBKHNN, Đảng bộ Ủy ban cũng được sớm thành lập. Sau khi Đảng bộ được thành lập, Đảng ủy lâm thời đã xúc tiến ngay việc thành lập các tổ chức quần chúng như tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên và tổ chức Phụ nữ của Ủy ban nhằm động viên tinh thần và trí tuệ của toàn thể cán bộ nhân viên trong Ủy ban vào thực hiện nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới thành lập.
Về hệ thống công đoàn, ban đầu chỉ có các Công đoàn bộ phận của các đơn vị: Văn phòng Ủy ban, Viện Văn học, Viện Sử học, Thư viện Khoa học và Kỹ thuật Trung ương. Các Công đoàn bộ phận này hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ trực thuộc.
Để thống nhất tổ chức Công đoàn cấp Ủy ban, Hội nghị Đảng ủy Ủy ban họp ngày 12/5/1959 ra Nghị quyết “Thành lập Ban Chấp hành Công đoàn chung”, Giáo sư Đặng Minh Trứ - Phó Chủ tịch Hội Phổ biến khoa học kỹ thuật được chỉ định làm Thư ký Công đoàn UBKHNN.
Ngày 5/6/1959, Ban Chấp hành Công đoàn lâm thời UBKHNN chính thức ra mắt và đi vào hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ Uỷ ban và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của Công đoàn các cơ quan Chính Dân Đảng Trung ương.
Ngay sau khi Ban Chấp hành Công đoàn lâm thời UBKHNN được thành lập, Thư ký Công đoàn đã nhấn mạnh nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban Chấp hành lâm thời UBKHNN:
-Phải bảo vệ được lợi ích của công đoàn viên viên chức, phải nắm vững tâm tư, nguyện vọng, phát huy vai trò của trí thức trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-Mọi hoạt động của Ban Chấp hành Công đoàn lâm thời UBKHNN phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Các công đoàn viên chức trực thuộc cần củng cố chuyên môn xây dựng quy chế phối hợp ở cấp mình.
-Công đoàn phải là người cộng tác đắc lực với chuyên môn, từ nay có Công đoàn lâm thời, mối quan hệ phối hợp đó ngày càng tốt hơn.
-Phải nhanh chóng xây dựng, kiện toàn hệ thống và quy chế hoạt động của Ban Chấp hành Công đoàn lâm thời UBKHNN phù hợp với điều lệ công đoàn Việt Nam.
Thay mặt Ban Chấp hành lâm thời UBKHNN, giáo sư Nguyễn Minh Trứ - Thư ký lâm thời đã hứa: “Công đoàn lâm thời UBKHNN sẽ phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và UBKHNN giao cho”.
Việc ra đời Công đoàn UBKHNN đã đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo đoàn viên là những công chức, viên chức và công đoàn viên các cơ sở trực thuộc, phù hợp với thực tế công cuộc đổi mới của đất nước.
Và cũng từ đó, ngày 05/6 hàng năm trở thành dấu mốc đáng ghi nhớ, ngày này hàng năm trở thành ngày truyền thống, ngày kỷ niệm và ngày hội của đoàn viên công chức, viên chức và người lao động của Bộ KH&CN.
2. Hoạt động của Công đoàn lâm thời Uỷ ban Khoa học Nhà nước những năm đầu sau khi thành lập Giai đoạn 1959-1960: Giai đoạn mới thành lập UBKHNN
Giai đoạn này, Đảng bộ UBKHNN đã xác định: “Cần nhận thức rõ tính chất và nhiệm vụ của tổ chức quần chúng mới lãnh đạo đúng đắn được. Phải làm cho Công đoàn và Đoàn thanh niên Lao động được thực sự trở thành nơi giáo dục tư tưởng, giáo dục chính trị cho quần chúng. Cần kiện toàn Ban Chấp hành Công đoàn bằng cách đưa nhiều người có trình độ, có điều kiện hoạt động vào Ban Chấp hành”.
Nhận thức được điều đó, ngay sau khi ra mắt, Ban Chấp hành lâm thời UBKHNN đã thực hiện Nghị quyết của Đảng uỷ Uỷ ban, công đoàn Uỷ ban tập trung vào việc xây dựng nề nếp công tác của Ban Chấp hành Công đoàn Ủy ban: Kiện toàn các Công đoàn đã có (Văn phòng Uỷ ban, Viện Văn học, Viện Sử học, Thư viện Khoa học và Kỹ thuật Trung ương), thành lập các Công đoàn bộ phận mới (Công đoàn Viện Kinh tế, Tổ Triết học, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hội Phổ biến khoa học kỹ thuật Việt Nam, Vụ Tổ chức cán bộ và Công đoàn các Ban Khoa học). Xúc tiến tổ chức Đại hội Công đoàn Uỷ ban lần thứ nhất vào cuối năm 1960, đồng thời động viên công đoàn viên thi đua hoàn thành kế hoạch công tác 2 năm 1959-1960, làm tốt việc xây dựng Chương trình Phát triển khoa học kỹ thuật dài hạn (15 năm) và Kế hoạch Khoa học kỹ thuật 5 năm (1961-1965).
Đầu năm 1961, Công đoàn đã phối hợp với chính quyền tổ chức tổng kết Công tác thi đua năm 1959-1960 và đã bầu chọn được 10 Chiến sỹ thi đua cấp Uỷ ban.
Giai đoạn 1961-1965: phát triển mạnh về tổ chức, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và chăm lo cải thiện đời sống cho đoàn viên công đoàn
Công tác tổ chức công đoàn: Trong thời kỳ này, tổ chức và lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu khoa học của Uỷ ban phát triển mạnh.
Cuối năm 1959, Uỷ ban có hơn 20 đơn vị đầu mối trực thuộc với 274 cán bộ, công nhân, viên chức (CBCNVC). Đến tháng 5/1965 có hơn 30 đơn vị đầu mối trực thuộc Uỷ ban với 827 CBCNVC. Sự phát triển mạnh về tổ chức và số lượng cán bộ kéo theo sự phát triển tương ứng của các tổ chức công đoàn và số lượng đoàn viên công đoàn. Công đoàn kết hợp với chính quyền đã tổ chức tốt các đại hội cán bộ công nhân viên chức hàng năm và Đại hội Công đoàn Uỷ ban vào cuối năm 1963.
Công tác chăm lo cải thiện đời sống: Công đoàn Uỷ ban đã đứng ra chủ trì một số các hoạt động như: mua thực phẩm, vật phẩm cho cán bộ đoàn viên công đoàn để đảm bảo đủ chế độ, tiêu chuẩn phân phối, đặc biệt là trong các dịp tết Nguyên đán hàng năm. Phát động phong trào tăng gia sản xuất trồng rau, nuôi lợn, gà để cải thiện đời sống, giảm bớt khó khăn trong đời sống của cán bộ công nhân viên.
Trong việc chăm lo cải thiện đời sống cho cán bộ đoàn viên công đoàn, Công đoàn Ủy ban chú trọng đến một số hoạt động như cùng với chính quyền tổ chức bố trí chỗ ở cho cán bộ đoàn viên, tổ chức bếp ăn tập thể của Uỷ ban, đảm bảo cho các đoàn viên công đoàn an tâm công tác. Công tác chăm lo đến con cán bộ đoàn viên công đoàn, đặc biệt chế độ nghỉ mát hàng năm theo tiêu chuẩn của Công đoàn cấp trên cũng được quan tâm.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng: Trong giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ và các chi bộ, công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Công đoàn Uỷ ban đã được tăng cường hơn và đã có hiệu quả nhất định. Nội dung giáo dục nhằm giúp cho đoàn viên công đoàn xác định rõ tư tưởng trong hoàn cảnh cả nước đang tập trung vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Báo cáo tổng kết công tác năm 1965 của Đảng bộ cơ quan đã đánh giá: “Năm 1965, công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng cho cán bộ đoàn viên công đoàn được tiến hành mạnh mẽ. Kết quả, đoàn viên công đoàn đã nhận thức kịp thời tình hình nhiệm vụ mới, hiểu được đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ. Nâng cao lòng căm thù quyết tâm chống Mỹ. Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, đoàn viên công đoàn đã cố gắng khắc phục hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, chấp hành tốt chủ trương sơ tán của cơ quan”.
Tiếp tục làm tốt công tác thi đua khen thưởng, Đẩy mạnh phòng trào thi đua xây dựng các tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Đã chú trọng tới công tác Phụ nữ. Xúc tiến việc động viên các nữ công đoàn viên tham gia vào phong trào thi đua “Phụ nữ ba đảm đang” kết hợp với việc giáo dục truyền thống Phụ nữ Việt Nam.
Giai đoạn 1966 - 1973: Hoạt động trong hoàn cảnh thời chiến
Ngày 11/10/1965 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Quyết định số 165 NQ/TVQH tách UBKHNN thành hai cơ quan: Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (UBKH&KTNN) và Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Vì vậy, Công đoàn UBKHNN đã đổi tên thành Công đoàn UBKH&KTNN. Do có sự chia tách cơ quan như vậy nên Công đoàn UBKH&KTNN chỉ còn lại các Công đoàn bộ phận thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Đầu mối các công đoàn và lực lượng đoàn viên của Công đoàn Uỷ ban giảm đi đáng kể.
Năm 1965, đế quốc Mỹ đẩy mạnh việc leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân, một số bộ phận, đơn vị thuộc Uỷ ban phải tiến hành sơ tán khỏi Hà Nội nên nội dung hoạt động của công đoàn cũng phải phù hợp với tình hình mới.
Vai trò của các Công đoàn cơ sở trở nên nặng nề hơn vì trong điều kiện sơ tán khó khăn, việc chăm lo cải thiện đời sống sinh hoạt cho đoàn viên công đoàn của từng đơn vị phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện nơi sơ tán. Công đoàn và chính quyền các đơn vị phải đảm bảo vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, vừa đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên. Tuy trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng hoạt động của Công đoàn Uỷ ban vẫn tập trung vào chức năng nhiệm vụ chính của tổ chức Công đoàn, biểu hiện ở những khía cạnh sau:
-Hướng các hoạt động công đoàn theo đúng chức năng của tổ chức công đoàn: vận động công đoàn viên tham gia vào công tác quản lý dân chủ thông qua các phong trào thi đua như thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí.
-Giáo dục đoàn viên công đoàn trong việc hoà mình với địa phương tại các nơi sơ tán.
-Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua khắc phục khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, kế hoạch công tác của cơ quan trong hoàn cảnh thời chiến như: “Mỗi người làm việc bằng hai” với nội dung ba cải tiến; “Phụ nữ ba đảm đang”...
-Chuẩn bị Đại hội Công đoàn UBKH&KTNN lần thứ V vào cuối năm 1973.
Giai đoạn 1973-1975: Công đoàn Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước trong Nhiệm kỳ V
Công đoàn UBKH&KTNN Nhiệm kỳ V tổ chức Đại hội vào ngày 3/12/1973. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 15 đồng chí. Sau khi thành lập, ngày 11/12/1973, Ban Chấp hành Công đoàn Uỷ ban đã họp để bàn về việc ổn định tổ chức, thành lập các ban chuyên môn giúp Ban Chấp hành trong hoạt động công đoàn (Ban tuyên huấn; Ban nữ công; Ban thi đua; Ban kiểm tra). Ban chấp hành gồm 10 đồng chí, đồng thời bầu ra ban thường vụ công đoàn gồm 5 đồng chí.
Nhiệm vụ đầu tiên của Ban Chấp hành Công đoàn mới là ổn định tổ chức Công đoàn Uỷ ban và các Công đoàn bộ phận. Các Ban của Công đoàn phải có kế hoạch hoạt động cụ thể để thông qua Ban Chấp hành Công đoàn; tiến hành nhanh việc bàn giao các ban giữa hai nhiệm kỳ; ổn định các công đoàn bộ phận cấp dưới; làm thủ tục thay đổi chủ tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước.
Công tác đời sống: Trong thời kỳ này, Công đoàn Uỷ ban thường xuyên xét trợ cấp khó khăn cho đoàn viên công đoàn các cơ sở, chủ trì tổ chức việc phân phối xe đạp, thực phẩm, tổ chức căng tin phục vụ cán bộ công đoàn tại chỗ. Ngoài ra Công đoàn cùng với chính quyền ổn định nhà ở cho cán bộ công đoàn viên, tổ chức việc giữ vệ sinh cho khu tập thể, cử người tham gia vào Hội đồng Xét duyệt lương của Ủy ban.
Để giảm bớt khó khăn về đời sống cho cán bộ đoàn viên, Công đoàn đã xúc tiến việc thành lập các hợp tác xã tiêu thụ để gây quỹ và giúp đỡ đoàn viên công đoàn trong cuộc sống hàng ngày.
Công tác tuyên huấn: Song song với việc chăm lo đời sống, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cũng được đẩy mạnh. Ngoài việc học tập các Nghị quyết của Đảng, Công đoàn Uỷ ban còn chủ động mời các báo cáo viên nói chuyện thời sự định kỳ một lần/quý. Việc này đã giúp cho đoàn viên công đoàn luôn theo sát được tình hình của đất nước, từ đó hiểu hơn về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong giai đoạn này, công tác tuyên huấn còn chú trọng đến những hoạt động khác như: phát động các đơn vị làm báo tường nêu gương người tốt việc tốt, tổ chức sáng tác tranh đả kích các hiện tượng tiêu cực xã hội và trong cơ quan, chú trọng đến việc học thêm nghiệp vụ, ngoại ngữ cho công đoàn viên.
Công đoàn Ủy ban đã tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá khác như: thi đấu thể thao, tổ chức du lịch trong dịp hè, chiếu phim phục vụ công đoàn viên và tổ chức thành công Hội diễn văn nghệ của UBKH&KTNN vào tháng 8/1974.
Công tác nữ công: Ngoài những hoạt động của những nhiệm kỳ trước như quan tâm đến công tác nhà trẻ, phát động các phong trào thi đua trong giới nữ, Công đoàn Uỷ ban tiến hành củng cố Ban Bảo vệ bà mẹ và trẻ em của Uỷ ban hoạt động theo chủ trương chung của Uỷ ban Bảo vệ bà mẹ và trẻ em của Chính phủ.
Công tác thi đua: Phát động phong trào thi đua tới tất cả các đơn vị trực thuộc Uỷ ban nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, tổ chức tổng kết công tác thi đua khen thưởng.
Để việc đánh giá kết quả các phong trào thi đua sát với cơ sở, trong nhiệm kỳ này, Công đoàn Uỷ ban đã thành lập Ban Thi đua của khối nghiên cứu và khối quản lý riêng.
Nhìn lại các hoạt động chủ yếu của Công đoàn Uỷ ban như đã nêu trên có thể thấy giai đoạn 1959 - 1973 là giai đoạn vừa ổn định tổ chức,vừa triển khai các nhiệm vụ theo chức năng của tổ chức Công đoàn. Từ chỗ có một Ban Chấp hành lâm thời Công đoàn Ủy ban có 7 đồng chí do Đảng uỷ Ủy ban chỉ định đến chỗ có một Ban chấp hành gồm 15 đồng chí (Nhiệm kỳ V) được thành lập theo hình thức bầu cử tại Đại hội.
Công đoàn các cơ sở trực thuộc Công đoàn Ủy ban đã được kiện toàn và hoạt động thống nhất theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Công đoàn Uỷ ban. Từ những nội dung hoạt động đơn giản ban đầu chủ yếu là vấn đề “cơm, áo, gạo, tiền”, đến Nhiệm kỳ V đã có những nội dung hoạt động phong phú hơn, bài bản hơn như: tổ chức các hội nghị công nhân viên chức hàng năm, vận động Đoàn viên Công đoàn tham gia vào các phong trào thi đua, tham gia quản lý dân chủ và đặc biệt cùng với Đảng uỷ, chính quyền đảm bảo cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của UBKH&KTNN trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Uỷ ban phải chia ra nhiều nơi sơ tán khác nhau.
Qua hơn 15 năm hình thành và phát triển, Công đoàn UBKHNN đã có sự hoàn thiện về tổ chức, phong phú về hoạt động và làm nền tảng vững chắc cho hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các nhiệm kỳ tiếp theo.
3. Công đoàn Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ Đại hội VI đến Đại hội XV (1975-2005)
Đại hội VI, Nhiệm kỳ 1975-1977: Đại hội diễn ra tại Thủ đô Hà Nội ngày 10/5/1975 đã thông qua Báo cáo tổng kết Nhiệm kỳ V, khẳng định những kết quả đã đạt được và thống nhất phương hướng, nhiệm vụ Nhiệm kỳ VI. Ban Chấp hành Công đoàn Ủy ban khóa VI gồm 11 đồng chí. Đồng chí Đoàn Phương (sau này Đồng chí giữ chức vụ Phó chủ nhiệm Ủy ban) được Đại hội bầu giữ chức vụ Thư ký Công đoàn Ủy ban.
Đại hội VII, Nhiệm kỳ 1977-1979: Đại hội diễn ra tại Thủ đô Hà Nội vào năm 1977. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành gồm 11 đồng chí. Đồng chí Đặng Trần Bảng - Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản được Đại hội bầu giữ chức vụ Thư ký Công đoàn Ủy ban. Đại hội đã thống nhất và tập trung vào ba nhiệm vụ chính, đó là: Thông qua báo cáo tổng kết Nhiệm kỳ VI; Thông qua phương hướng, Nhiệm kỳ VII; Bầu Ban Chấp hành Công đoàn Ủy ban Nhiệm kỳ VII.
Đại hội VIII, Nhiệm kỳ 1979-1981: Đại hội diễn ra tại Thủ đô Hà Nội ngày 04/8/1979, về dự Đại hội có các đại biểu thay mặt cho hơn 600 cán bộ công nhân viên của 23 Công đoàn bộ phận và tổ chức Công đoàn trực thuộc. Đại hội đã thông qua Báo cáo tổng kết Nhiệm kỳ VII, khẳng định những kết quả đạt được và thống nhất phương hướng, nhiệm vụ Nhiệm kỳ VIII. Đại hội đã bầu được 13 đồng chí vào Ban Chấp hành Công đoàn. Đồng chí Đặng Trần Bảng - Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản được Đại hội tiếp tục bầu làm Thư ký Công đoàn Ủy ban.
Đại hội IX, Nhiệm kỳ 1981-1983: Đại hội diễn ra tại Thủ đô Hà Nội ngày 05/8/1981 với sự tham gia của 90 đại biểu đại diện cho 868 cán bộ công nhân viên của 13 công đoàn bộ phận và 11 tổ chức công đoàn trực thuộc.
Với tinh thần tập trung trí tuệ, Đại hội đã thống nhất với Bản tổng kết khóa VIII và thông qua phương hướng, nhiệm vụ Nhiệm kỳ khóa IX. Đại hội đã bầu được 13 đồng chí vào Ban Chấp hành Công đoàn Ủy ban Nhiệm kỳ IX. Đồng chí Bùi Xuân An - Cục Tiêu chuẩn được Đại hội bầu giữ chức vụ Thư ký Công đoàn Ủy ban và là đại biểu chính thức đi dự Đại hội Đại biểu Liên hiệp Công đoàn thành phố Hà Nội. Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đoàn viên trong cơ quan hăng hái vươn lên, nâng cao ý thức làm chủ tập thể, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đã được Đại hội IX Công đoàn Ủy ban biểu quyết thông qua.
Đại hội X, nhiệm kỳ 1983-1986: Đại hội diễn ra tại Thủ đô Hà Nội ngày 08/10/1983 gồm 104 đại biểu đại diện cho trên 1.000 cán bộ đoàn viên đang sinh hoạt tại 27 Công đoàn và tổ công đoàn trực thuộc.
Đại hội đã tổng kết đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra những tồn tại hạn chế, rút kinh nghiệm và thông qua nhiệm vụ chương trình hoạt động Nhiệm kỳ X với những nội dung trên các mặt:
Công tác tư tưởng: Trong sinh hoạt công đoàn từ cấp tổ công đoàn trở lên đều tổ chức đấu tranh chống tư tưởng hoài nghi, xây dựng tư tưởng tin tưởng tuyệt đối vào giải pháp của Đảng và Chính phủ, đề cao trách nhiệm của Công đoàn trong công tác xây dựng Đảng, giới thiệu đoàn viên ưu tú để chi bộ xem xét, kết nạp vào Đảng.
Về công tác thi đua: Đẩy mạnh phong trào thi đua, xây dựng nhiều đơn vị tiên tiến và tổ lao động xã hội chủ nghĩa, mở hội nghị chuyên đề về công tác sáng chế, phát minh cải tiến công tác để tạo ra cao trào thi đua mới.
Công tác đời sống: Được xác định là công tác rất quan trọng được lãnh đạo Uỷ ban quan tâm, trong nhiệm kỳ này quyết tâm cải thiện đời sống vật chất cho cán bộ công nhân viên. Cùng với chính quyền quan tâm tới hoạt động các khu tập thể về mặt trật tự vệ sinh, đặc biệt là giáo dục các cháu thiếu niên, nhi đồng.
Công tác nữ công và công tác văn thể: Cùng với Đoàn Thanh niên đẩy mạnh phong trào thể thao, thể dục, phong trào xây dựng gia đình văn hoá mới. Đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ và chú ý đến nguyện vọng của chị em phụ nữ trong cơ quan.
Công tác tổ chức: Kiện toàn Công đoàn Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nhà nước. Hàng năm tổ chức Đại hội đại biểu công nhân viên chức tại các đơn vị trực thuộc Uỷ ban.
Đại hội đã bầu ra 15 đồng chí vào Ban Chấp hành Công đoàn UBKH&KTNN khóa X. Ban Chấp hành đã họp phiên đầu tiên để bầu ra Ban Thường vụ, Thư ký, Phó Thư ký và phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí. Đồng chí Đặng Trần Bảng - Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản được Đại hội bầu giữ chức vụ Thư ký Công đoàn Ủy ban.
Theo đề nghị của Công đoàn Ủy ban, ngày 15/12/1984. Ban Liên hiệp Công đoàn Hà Nội đã có quyết định tách Công đoàn Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Nhà nước trực thuộc Công đoàn quận Hoàn Kiếm, sau này Công đoàn Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng lại sát nhập lại về Công đoàn Bộ KH&CN. Công đoàn Ủy ban quyết định thành lập thêm 02 Công đoàn bộ phận: Công đoàn Liên hiệp các Hội khoa học (tháng 12/1984) và Công đoàn Trung tâm Chuyển giao kỹ thuật tiến bộ (tháng 11/1985). Công đoàn Ủy ban quyết định chuyển 06 tổ Công đoàn trực thuộc thành Công đoàn bộ phận. Đến cuối năm 1985 Công đoàn Ủy ban có 17 Công đoàn bộ phận và 07 tổ Công đoàn trực thuộc, 24 đầu mối Công đoàn bộ phận với tổng số 685 cán bộ, đoàn viên (trong đó có 241 nữ).
Đại hội XI, Nhiệm kỳ 1986-1989: Đại hội diễn ra tại Thủ đô Hà Nội ngày 28/6/1986, đến dự có 70 đại biểu đại diện cho gần 700 cán bộ công nhân viên của 25 đơn vị trực thuộc Ủy ban.
Đại hội đã thông qua báo cáo tổng kết Nhiệm kỳ 1983-1986 và thông qua nhiệm vụ, chương trình hành động Nhiệm kỳ 1986-1989 gồm một số nội dung:
Công tác tổ chức: Hàng năm Công đoàn tổ chức Hội nghị công nhân viên chức 6 tháng đầu năm và cuối năm. Tổ chức Đại hội công đoàn bộ phận và tổ công đoàn theo đúng nhiệm kỳ.
Công tác tuyên huấn, thi đua: Phối hợp chặt chẽ với Đảng uỷ tổ chức học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, tổ chức các buổi nghe thời sự chính trị, tổ chức các cuộc họp quần chúng, nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng của cán bộ công nhân viên để có những biện pháp cụ thể giúp đỡ.
Phát động các đợt thi đua ngắn ngày nhân những ngày kỷ niệm lớn trong năm, sau mỗi đợt có tổng kết, đánh giá và khen thưởng kịp thời bằng các hình thức thích hợp.
Công tác đời sống: Phấn đấu mỗi năm mỗi cán bộ công nhân viên tăng thêm thu nhập được 500 đ/người/năm.
Công tác văn thể: Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động văn thể nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn, các đơn vị cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu.
Công tác nữ công: Tổ chức các hoạt động nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10. Theo dõi việc thực hiện chỉ thị 144 của Ban Bí thư, Nghị quyết 176 của Hội đồng Bộ trưởng và Chỉ thị của Tổng công đoàn Việt Nam về công tác nữ công.
Công tác tài chính - kiểm tra: Đảm bảo thanh quyết toán đúng quy định, đúng thời gian. Đưa hoạt động kiểm tra vào nề nếp và có hiệu quả.
Đại hội đã bầu ra 15 đồng chí vào Ban Chấp hành Công đoàn UBKH&KTNN khóa XI. Ban chấp hành đã họp phiên đầu tiên với Ban Thường vụ, Thư ký, Phó Thư ký và trưởng các Ban cụ thể. Đồng chí Đặng Trần Bảng - Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản được Đại hội tiếp tục bầu giữ chức vụ Thư ký Công đoàn Ủy ban.
Đến cuối nhiệm kỳ, Công đoàn Ủy ban bao gồm 22 Công đoàn bộ phận và tổ Công đoàn với tổng số đoàn viên 710 đồng chí.
Đại hội XII, Nhiệm kỳ 1989-1992: Đại hội diễn ra tại Thủ đô Hà Nội ngày 04/3/1989, về dự Đại hội có 97 đại biểu chính thức.
Đại hội đã thông qua báo cáo tổng kết Nhiệm kỳ 1986-1989 và thống nhất phương hướng Nhiệm kỳ 1989-1992 với một số nội dung như: duy trì đều đặn hội nghị dân chủ; nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên; đẩy mạnh công tác tuyên truyền và xây dựng con người mới; tăng cường công tác nữ công, tài chính…
Đại hội đã bầu ra được 15 đồng chí tham gia vào Ban Chấp hành Nhiệm kỳ XII. Ngày 7/3/1989 Ban Chấp hành Công đoàn họp phiên thứ nhất bầu chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch và phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí. Đồng chí Đặng Trần Bảng - Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản được Đại hội bầu giữ chức vụ Chủ tịch Công đoàn.
Đại hội XIII, Nhiệm kỳ 1992-1996: Được tổ chức vào ngày 7/11/1992. Đại hội được coi như Đại hội Công nhân viên chức của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT). Đại hội có sự tham gia của 150 đại biểu.
Tại phiên họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX ngày 30/9/1992 đã ban hành Nghị quyết đổi tên UBKH&KTNN thành Bộ KH,CN&MT. Để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngày 25/12/1992, Công đoàn Ủy ban đổi tên thành Công đoàn Bộ KH,CN&MT (sau đây gọi tắt là Công đoàn Bộ).
Báo cáo tổng kết công tác, hoạt động của Công đoàn Bộ Nhiệm kỳ XIII đã được các đại biểu thảo luận và nhất trí cao. Phương hướng nhiệm vụ Công đoàn Nhiệm kỳ XIII đã được các đại biểu xác định phải có những thay đổi theo tình hình mới; xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ KH,CN&MT.
Theo đó Bộ KH,CN&MT là cơ quan trực thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; tiêu chuẩn hoá; sở hữu công nghiệp và bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước. Đại hội đã nhấn mạnh tới vai trò của Công đoàn Bộ, các Công đoàn bộ phận và các tổ Công đoàn trực thuộc trong các hoạt động quần chúng như văn hoá thể thao, nữ công, đời sống, thi đua nhằm động viên các công đoàn viên tại các Công đoàn bộ phận và các tổ Công đoàn trực thuộc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn tại đơn vị mình.
Đại hội đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề thực hiện cải cách hành chính, quy chế dân chủ ở cơ sở, vai trò của công tác kiểm tra trong mọi hoạt động của Công đoàn Bộ nói chung, các Công đoàn bộ phận và các tổ Công đoàn trực thuộc nói riêng, nhất là vấn đề thực hiện cải cách hành chính và quy chế dân chủ do Chính phủ quy định trong thời gian những năm tiếp theo.
Thay mặt lãnh đạo Bộ KH,CN&MT, đồng chí Đặng Hữu, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH,CN&MT đã phát biểu ý kiến khẳng định và cảm ơn sự đóng góp của tổ chức công đoàn vào việc động viên toàn thể cán bộ viên chức thuộc Bộ hoàn thành nhiệm vụ của Bộ trong những năm qua và mong rằng với phương hướng nhiệm vụ mới, Công đoàn Bộ Nhiệm kỳ XIII sẽ có những đóng góp to lớn hơn vào thành tích của Bộ trong những năm tới. Bộ trưởng đặc biệt nhấn mạnh tới chức năng và nhiệm vụ mới của Bộ KH,CN&MT.
Với chức năng và nhiệm vụ mới này đòi hỏi Ban Chấp hành Công đoàn Bộ cần phát huy mạnh mẽ vai trò của tổ chức công đoàn nhằm phát động một phong trào thi đua mới sôi nổi trong từng công đoàn bộ phận và từng tổ công đoàn trực thuộc nhằm mục đích góp phần hoàn thành nhiệm vụ của Nhà nước giao cho Bộ KH,CN&MT.
Đại hội đã nhất trí về số lượng Ban Chấp hành Công đoàn Bộ Nhiệm kỳ XIII có 11 đồng chí so với 15 đồng chí Nhiệm kỳ XII. Đồng chí Đỗ Bảo, Phó Chánh Văn phòng Bộ giữ chức Chủ tịch Công đoàn Bộ KH,CN&MT.
So với các nhiệm kỳ trước, số đồng chí mới trúng cử vào Ban Chấp hành Công đoàn nhiệm kỳ này khá cao, tỷ lệ các đồng chí mới tham gia vào Ban Chấp hành Công đoàn Bộ là 6/11 (trong đó có 2 đồng chí mới là nữ), đó là các đồng chí Hồ Quang Cát (Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật), Trần Xuân Định (Vụ Tổ chức cán bộ), Phạm Mạnh Hào (Cục Sáng chế), Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Văn Khoa (Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) và đồng chí Nguyễn Hoàng Yến (Trung tâm Thông tin tư liệu KH&CN quốc gia).
Ban Chấp hành Công đoàn Bộ cũng đã nhất trí thành lập Ban Kiểm tra để giúp Ban Chấp hành Công đoàn Bộ làm công tác kiểm tra mọi hoạt động của Ban Chấp hành Công đoàn Bộ, các Công đoàn bộ phận và các tổ Công đoàn trực thuộc. Đồng thời Ban Chấp hành Công đoàn Bộ cũng cử ra Ban Nữ công để giúp Ban Chấp hành Công đoàn Bộ thúc đẩy hoạt động của chị em phụ nữ trong Bộ. Đồng chí Tạ Ngọc Hà được bầu làm chủ nhiệm.
Ngay sau khi Đại hội thành công, Ban Chấp hành Công đoàn Bộ, các Công đoàn bộ phận và các tổ Công đoàn đã ổn định tổ chức, tổ chức các hoạt động văn hoá, thể thao (Thi đấu bóng bàn, cầu lông, bóng chuyền, bóng đá, cờ vua, nữ công gia chánh) của Công đoàn Bộ KH,CN&MT không những được duy trì mà còn được tổ chức thường xuyên hơn. Đặc biệt Công đoàn đã phối hợp cùng Đoàn Thanh niên Bộ tổ chức sinh hoạt văn hóa và hoạt động thể thao nhân dịp các ngày lễ lớn trong năm như các Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2), Giải phóng miền Nam (30/4), Quốc tế Lao động (1/5), Giải phóng Điện Biên phủ (7/5), Kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5), Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9), đồng thời tích cực tham gia vào các hoạt động hội diễn thể thao do Công đoàn Viên chức Việt Nam tổ chức.
Trong Nhiệm kỳ 1992-1996 Công đoàn Bộ KH,CN&MT đã tập trung chủ yếu nhiệm vụ của mình vào các hoạt động thực hiện những nội dung của Bộ luật Lao động, đẩy mạnh việc thực hiện phong trào thi đua “lao động giỏi” nhân dịp 50 năm thành lập nước, phong trào “xây dựng công đoàn cơ sở vững mạnh”, thực hiện cuộc vận động đoàn viên Công đoàn thực hiện chủ trương cải cách hành chính theo tinh thần Nghị quyết 38/CP của Chính phủ.
Các hoạt động của Công đoàn Bộ KH,CN&MT Nhiệm kỳ XIII nêu trên đều gắn liền với phong trào thi đua chào mừng 50 năm thành lập nước (1945-1995). Vì thế hoạt động của Công đoàn Bộ có những biến đổi về chất; nhất là sau khi Công đoàn Bộ nằm trong bộ máy tổ chức của Công đoàn Viên chức Việt Nam; là tổ chức trực thuộc Công đoàn Viên chức Việt Nam; có con dấu và tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước thành phố Hà nội, có đủ nguồn kinh phí cần thiết để tổ chức mọi hoạt động của mình sau này.
Đại hội XIV, Nhiệm kỳ 1996-2000: Đại hội đại biểu Công đoàn Bộ KH,CN&MT Nhiệm kỳ XIV đã được tiến hành từ ngày 19/7/1996 đến ngày 20/7/1996 tại trụ sở của Bộ. Tham dự đại hội có 113 đại biểu đại diện cho 1.630 đoàn viên thuộc 26 Công đoàn bộ phận trực thuộc Công đoàn Bộ.
Đại hội vinh dự được đón đồng chí Nguyễn An Lương - Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Ban Chấp hành lâm thời Công đoàn Viên chức Việt Nam; Đồng chí Chu Tuấn Nhạ - Thứ trưởng Thường trực, Bí thư Đảng uỷ Bộ KH,CN&MT đến dự và chỉ đạo Đại hội (sau này đồng chí Chu Tuấn Nhạ là Bộ trưởng Bộ KH&CN).
Đại hội đã thông qua Báo cáo kết quả công tác Nhiệm kỳ 1992-1996 và phương hướng hoạt động Công đoàn Bộ Nhiệm kỳ 1996 - 2000 và Báo cáo kiểm tra tài chính của Ban Chấp hành Công đoàn Bộ Nhiệm kỳ 1992-1996. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Công đoàn Bộ KH,CN&MT khoá XIV, Nhiệm kỳ 1996-2000 gồm 15 đồng chí. Đồng chí Đỗ Bảo, Phó Chánh Văn phòng Bộ giữ chức vụ Chủ tịch, bầu 08 đại biểu chính thức và 02 đại biểu dự khuyết đi dự Đại hội Công đoàn Viên chức Việt Nam lần thứ I.
Trong nhiệm kỳ này, Công đoàn Bộ KH,CN&MT có 33 Công đoàn bộ phận trực thuộc, gồm có các loại hình tổ chức: Công đoàn Tổng cục; Công đoàn Cục; Công đoàn Vụ; Công đoàn Văn phòng Bộ; Công đoàn Viện, Trung tâm, Trường; Công đoàn Báo, Nhà xuất bản, Tạp chí; Công đoàn Công ty; Công đoàn các đầu mối khác thuộc Bộ KH,CN&MT.
Những thay đổi về tổ chức của Công đoàn Bộ KH,CN&MT nhiệm kỳ 1996-2000:
•Ngày 15/5/1999, Ban Thường vụ Công đoàn Viên chức Việt Nam đã ra Quyết định số 61/QĐ-CĐVC chuyển Công đoàn cơ sở Viện Nghiên cứu công nghệ quốc gia (trực thuộc Công đoàn Viên chức Việt Nam) về trực thuộc Công đoàn Bộ KH,CN&MT.
•Ngày 01/9/1997, Ban Thường vụ Công đoàn Viên chức Việt Nam đã ra Quyết định số 38/QĐ-CĐVC chuyển Công đoàn cơ sở Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (trực thuộc Công đoàn Viên chức Việt Nam) về trực thuộc Công đoàn Bộ KH,CN&MT.
•Ngày 23/6/1999, Ban Thường vụ Công đoàn Viên chức Việt Nam ra Quyết định số 54/QĐ-CĐVC nâng cấp công đoàn cơ sở Bộ KH,CN&MT trường lên Công đoàn cấp trên cơ sở trực thuộc Công đoàn Viên chức Việt Nam.
Đại hội XV, Nhiệm kỳ 2000-2005: Công đoàn Bộ KH,CN&MT nay là Công đoàn Bộ KH&CN (Theo Nghị định số 54/2003/NĐCP ngày 19/5/2003 của Chính phủ, Bộ KH,CN&MT đổi tên thành Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN)) tiến hành Đại hội Khóa XV, Nhiệm kỳ 2000-2005 vào ngày 14/01/2000 tại Hội trường 215, Nhà 39 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Đồng chí Phạm Huyền - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ KH&CN được bầu làm Chủ tịch Công đoàn Bộ.
Nội dung chính của Đại hội lần này là tổng kết công tác Công đoàn Nhiệm kỳ 1996-2000, đề ra phương hướng hoạt động và nhiệm vụ công tác công đoàn Nhiệm kỳ 2000-2005 và bầu Ban Chấp hành Công đoàn Bộ Khóa XV, Nhiệm kỳ 2000-2005 gồm 17 uỷ viên để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của Ban Chấp hành Công đoàn cấp trên cơ sở theo đúng Điều lệ Công đoàn Việt Nam Khoá VIII quy định.
Đại hội đã ra Nghị quyết nhất trí thông qua Báo cáo tổng kết công tác công đoàn Khóa XIV, Nhiệm kỳ 1996-2000 và Phương hướng hoạt động, nhiệm vụ công tác công đoàn Khóa XV, Nhiệm kỳ 2000-2005, kết quả bầu cử Ban Chấp hành Công đoàn mới, đồng thời Đại hội giao nhiệm vụ cho Ban Chấp hành Công đoàn mới nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp của các đại biểu và căn cứ vào báo cáo của Ban Chấp hành Công đoàn Nhiệm kỳ XIV để xem xét, bàn bạc xây dựng chương trình kế hoạch và các biện pháp cụ thể có ý nghĩa thiết thực nhằm triển khai thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ công tác công đoàn trong thời gian tới.
Căn cứ vào Nghị quyết này, một Chương trình hoạt động công tác Công đoàn Bộ Nhiệm kỳ 2000-2005 đã được hình thành và được Ban Chấp hành Công đoàn Nhiệm kỳ 2000-2005 thông qua để làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Công đoàn Bộ, trong đó có 8 nội dung hoạt động:
1.Hoàn thiện hệ thống tổ chức Công đoàn Bộ theo mô hình bốn cấp, thực hiện quản lý thống nhất tổ chức và nhân sự ở các cấp công đoàn; xác định và quán triệt chức năng, nhiệm vụ của công đoàn trên cơ sở, các công đoàn cơ sở và công đoàn bộ phận trực thuộc; nhanh chóng đưa các tổ chức công đoàn đi vào hoạt động nền nếp và có hiệu quả.
2.Thực hiện thường xuyên công tác tuyền truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao hiểu biết cho các đoàn viên công đoàn về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, về tổ chức công đoàn và quyền lợi trách nhiệm của đoàn viên công đoàn trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị và các nguồn thông tin, báo chí khác.
3.Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp thiết thực để gây quỹ công đoàn, cải thiện điều kiện sống và làm việc cho cán bộ công nhân viên chức, thực hiện trợ cấp cho các gia đình khó khăn, đảm bảo việc làm cho người lao động, hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động văn thể, điều dưỡng, chữa bệnh cho công đoàn viên.
4.Tổ chức và tham gia tích cực mọi phong trào văn thể và các hoạt động văn thể do đơn vị, Công đoàn Bộ và công đoàn cấp trên tổ chức phát động.
5.Đẩy mạnh hoạt động của công tác nữ công.
6.Đẩy mạnh hoạt động thi đua trong các tổ chức công đoàn thuộc Công đoàn Bộ.
7.Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra công đoàn.
8.Một số công tác khác cần triển khai ngay trong năm 2002.
Trong thời kỳ này đã có các Ban giúp việc Ban Chấp hành Công đoàn Bộ KH,CN&MT: Ban Tổ chức - Thi đua Công đoàn Bộ; Uỷ ban kiểm tra Công đoàn Bộ; Ban Chính sách - Kinh tế Công đoàn Bộ; Ban Văn thể Công đoàn Bộ; Ban Nữ công Công đoàn Bộ; Văn phòng Công đoàn Bộ.
Căn cứ Quyết định số 54/QĐ-CĐVC ngày 23 tháng 6 năm 1999 của Ban Thường vụ Công đoàn Viên chức Việt Nam về việc nâng cấp Công đoàn Bộ KH,CN&MT (nay là Công đoàn Bộ KH&CN) lên Công đoàn cấp trên cơ sở và được sự nhất trí của Thường vụ Đảng uỷ Bộ KH,CN&MT. Lần đầu tiên trong hoạt động của mình, Công đoàn Bộ chính thức có một bộ phận chuyên trách giúp việc, đó là Văn phòng Công đoàn Bộ được thành lập tại Quyết định số 61/QĐ-CĐB ngày 12 tháng 9 năm 2000 của Ban Thường vụ Công đoàn Bộ KH,CN&MT.
Thực hiện chỉ đạo của Ban Thường vụ Công đoàn Viên chức Việt Nam và Đảng ủy Bộ, lãnh đạo Bộ, Công đoàn Bộ đã bàn giao Công đoàn Cục Môi trường, Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản và Ban Chỉ đạo Quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường sang Công đoàn Bộ Tài nguyên và Môi trường theo Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ. Như vậy, Công đoàn Bộ KH,CN&MT hiện còn 15 Công đoàn cơ sở và 20 Công đoàn bộ phận trực thuộc Công đoàn Bộ với tổng số 2.734 đoàn viên.
Tiếp theo đó, ngày 19/5/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN. Do có sự thay đổi cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN, nên tổ chức công đoàn Bộ cũng có sự thay đổi cho phù hợp. Tính đến thời điểm này Công đoàn Bộ KH&CN có 14 Công đoàn cơ sở, 16 Công đoàn bộ phận trực thuộc.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN BỘ KH&CN TỪ NĂM 2005-2015
1. Đặc điểm và tình hình đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động
Tại Đại hội lần thứ XVI, Công đoàn Bộ có 40 công đoàn trực thuộc với tổng số cán bộ, công chức, viên chức và người lao động là 5.738, trong đó nữ là 3.181 người (chiếm tỷ lệ 55%).
Tính từ năm 2003 đến năm 2015, Chính phủ đã ban hành 03 Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ
KH&CN (Nghị định số 54/2003/NĐ-CP, Nghị định số 28/2008/NĐCP và Nghị định 20/2013/NĐ-CP). Vì vậy, tổ chức công đoàn trực thuộc Công đoàn Bộ KH&CN cũng thay đổi. Đến thời điểm Đại hội, Công đoàn Bộ có 54 công đoàn trực thuộc, trong đó 14 Công đoàn bộ phận và 40 Công đoàn cơ sở với tổng số cán bộ công chức, viên chức và lao động gần 7.000 người.
Mười năm qua, lực lượng cán bộ, công chức, viên chức và lao động Bộ KH&CN không ngừng lớn mạnh, đã có bước trưởng thành về nhiều mặt, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, hiệu quả công tác ngày càng được nâng cao; tích cực tham gia cải cách hành chính, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội; phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác.
Hầu hết cán bộ, công chức, viên chức và lao động có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng, ủng hộ và quyết tâm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của ngành KH&CN.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thu nhập và đời sống của cán bộ, công chức, viên chức, lao động đã có những cải thiện. Song nhìn chung vẫn còn thấp so với nhu cầu của cuộc sống. Vấn đề tiền lương và nhà ở vẫn là những vấn đề hết sức khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức nhất là cán bộ, công chức trẻ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chưa hấp dẫn, thu hút lực lượng trẻ, giỏi vào công tác trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp nhà nước.
Nguyện vọng chung của cán bộ, công chức, viên chức và lao động là tình hình chính trị, xã hội ổn định, nền kinh tế đất nước phát triển bền vững; người lao động được quan tâm về việc làm, có thu nhập khá hơn để cải thiện đời sống, có môi trường tốt để cống hiến và phát triển, có điều kiện để học tập nâng cao trình độ, có cơ chế để phát huy quyền làm chủ, được tham gia xây dựng Đảng, cơ quan, đơn vị và tổ chức công đoàn trong sạch, vững mạnh.
2. Tổ chức Công đoàn Bộ
Nhiệm kỳ 2005 - 2010: Đại hội được tổ chức ngày 24/3/2005 tại Hội trường Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, số 8 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội. Đại hội vinh dự được các đồng chí lãnh đạo Bộ, Đảng ủy Bộ KH&CN và đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Phó Chủ tịch Thường trực Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn Viên chức Việt Nam đến dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Công đoàn Bộ khóa XVI, Nhiệm kỳ 2005-2010 gồm 21 uỷ viên. Đồng chí Trần Xuân Định, Chánh Văn phòng đăng ký hoạt động KH&CN được bầu làm Chủ tịch Công đoàn Bộ, 02 Phó Chủ tịch Công đoàn Bộ là các đồng chí: Lưu Trường Đệ, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học xã hội và tự nhiên và Đặng Quang Huấn, Phó Chánh Thanh tra Bộ.
Tháng 10 năm 2007, đồng chí Trần Xuân Định nghỉ hưu theo chế độ. Đồng chí Đặng Quang Huấn, Phó Chánh Thanh tra Bộ được Hội nghị Ban Chấp hành (BCH) Công đoàn Bộ bầu là Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN Nhiệm kỳ XVI. Công đoàn Viên chức Việt Nam đã ban hành Quyết định số 149/QĐ-CĐVC ngày 26/10/2007 công nhận chức danh Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN.
Nhiệm kỳ 2010 - 2015: Đại hội được tổ chức trong hai ngày 17/6 -18/06/2010 tại Hội trường Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, số 8 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội. Đại hội vinh dự được các đồng chí Hoàng Văn Phong, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự, Bộ trưởng Bộ KH&CN, Đồng chí Thứ trưởng Lê Đình Tiến, Bí thư Đảng ủy Bộ KH&CN và đồng chí
Nguyễn Thị Thu Hồng, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn Viên chức Việt Nam đến dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội được tổ chức tại Hà Nội đã bầu ra Ban Chấp hành Công đoàn Bộ Khóa XVII, Nhiệm kỳ 2010-2015 gồm 21 ủy viên. Đồng chí Đặng Quang Huấn, Phó Chánh Thanh tra Bộ được bầu lại làm Chủ tịch Công đoàn Bộ (Tháng 4/2013 đồng chí Đặng Quang Huấn được bổ nhiệm là Vụ trưởng Vụ Thi đua khen thưởng Bộ KH&CN); Đồng chí Đỗ Thị Minh Ngọc và Phan Minh Hải, Giám đốc Trung tâm Đào tạo thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng(TĐC) được bầu làm Phó chủ tịch Công đoàn Bộ.
Ngay sau Đại hội, Ban Chấp hành đã họp để phân công nhiệm vụ cho từng ủy viên BCH; Thông qua quy chế làm việc của BCH, Văn phòng Công đoàn và các Ban giúp việc cho BCH. Thống nhất hành động để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Khóa XVII, Nhiệm kỳ 2010-2015.
3. Những kết quả nổi bật
3.1. Tham gia, nghiên cứu xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ chính sách; đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.
Tham gia góp ý các văn bản có liên quan như: tổng kết đánh giá, tham gia đóng góp bổ sung, sửa đổi Hiến pháp; Bộ Luật Tố tụng dân sự, Bộ Luật Dân sự sửa đổi, Luật Thanh tra, Luật Phòng chống tham nhũng và Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thi đua khen thưởng, Luật Bình đẳng giới, Luật Lao động sửa đổi, Dự thảo Luật Công vụ, chính sách tiền lương…
Tham gia với chính quyền để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KH&CN bao gồm: Hoạt động và xây dựng tiềm lực về KH&CN; Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sản phẩm, hàng hóa; Sở hữu trí tuệ; An toàn an ninh hạt nhân và ứng dụng năng lượng nguyên tử. Ban Chấp hành Công đoàn Bộ đã vận động cán bộ, công chức, viên chức và người lao động tham gia công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết của Đảng về phát triển KH&CN. Hệ thống văn bản nổi bật thời kỳ này là hệ thống pháp luật để cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng, cụ thể như: Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật Chất lượng và Sản phẩm hàng hóa; Luật Đo lường; Luật Công nghệ cao; Luật Chuyển giao công nghệ; Luật Năng lượng nguyên tử; Luật KH&CN và các văn bản dưới luật quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành.
3.2. Công tác phối hợp với chính quyền thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở luôn được coi trọng. Ban Chấp hành Công đoàn Bộ thường xuyên quan tâm và chỉ đạo các công đoàn trực thuộc phối hợp với thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, hội nghị người lao động theo đúng các quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; nhờ đó chất lượng hội nghị được nâng lên với những nội dung thiết thực, góp phần thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và phát huy dân chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên công đoàn. Các công đoàn cơ sở đã tham gia xây dựng và triển khai thực hiện các quy chế nội bộ nhằm công khai, minh bạch các hoạt động của đơn vị, đặc biệt là quy chế chi tiêu đơn vị sự nghiệp.
3.3. Công tác chỉ đạo và nâng cao chất lượng hoạt động Ban Thanh tra nhân dân được công đoàn cơ sở quan tâm, đưa vào nội dung hoạt động công đoàn hàng năm. Đến nay hầu hết Ban Thanh tra nhân dân đều có quy chế hoạt động, tập trung giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị cán bộ công chức, Đại hội công nhân viên chức lao động, quy chế quản lý cơ quan, đơn vị; góp phần cùng chính quyền thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
Bên cạnh đó công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách có liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức và người lao động như việc làm, tiền lương, báo hiểm xã hội, tuyển dụng, bổ nhiệm, đi học, chế độ nghỉ dưỡng, ốm đau, thai sản... được tiến hành thường xuyên.
3.4. Vận động cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thực hiện tốt các phong trào do Công đoàn Viên chức Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và các cơ quan Trung ương phát động, cụ thể:
-Ủng hộ tiền lương đóng góp các quỹ: Quỹ vì Trường Sa; Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ vì người nghèo, ủng hộ đồng bào miền Trung bị ảnh hưởng lũ lụt; Ủng hộ nhân dân Mianma, Trung Quốc khắc phục hậu quả thiên tai bão lụt, động đất; Ủng hộ nhân dân Nhật Bản khắc phục hậu quả thiên tai động đất và sóng thần năm 2011...
-Công đoàn Bộ KH&CN nhận phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng Đoàn Thị Trì tại thôn Kim Bồng, xã Kim Đường, huyện Ứng Hòa, Hà Nội gần 15 năm. Mẹ Đoàn Thị Trì có 3 con trai đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
-Hàng năm vào Ngày thương binh liệt sỹ 27/7, Công đoàn Bộ và các công đoàn trực thuộc thăm và tặng quà các thương binh tại Trung tâm thương binh: Thuận Thành, Bắc Ninh; Duy Tiên, Hà Nam; Vũ Thư, Thái Bình; Lạng Giang, Bắc Giang; Trung tâm Thương binh Hà Nội...
-Thành lập các Đoàn công tác (gồm Đảng ủy Bộ, Công đoàn Bộ, Đoàn Thanh niên Bộ) đi dâng hương tại: Ngã ba Đồng Lộc; Nghĩa trang Trường Sơn; Đường 9; Khe Sanh; Thành Cổ Quảng Trị...
-Công tác thể thao, văn nghệ là hoạt động được duy trì thường xuyên hàng năm với điểm nhấn là liên hoan văn nghệ quần chúng, giao lưu thể thao giữa các đơn vị của Bộ với các đơn vị của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam và các KH&CN nhân dịp Chào mừng 80 năm thành lập Công đoàn Việt Nam, 15 năm thành lập Công đoàn Viên chức Việt Nam, Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, kỷ niệm 50 năm, 55 năm ngày thành lập Bộ KH&CN, nhân Ngày KH&CN Việt Nam 18/5.
-Phối hợp với Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương tuyên truyền và vận động cán bộ, công chức, viên chức, lao động tham gia hiến máu tình nguyện. Năm 2014 “Ngày hội hiến máu nhân đạo”, năm 2015 “Giọt hồng nhân ái” thu hút trên 700 lượt đoàn viên từ các công đoàn tham gia và đã lấy được 463 đơn vị máu…
3.5.Ttuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho công đoàn viên; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động vững mạnh. Đây là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ những người lao động mới, có lòng yêu nước, có đạo đức tốt, có kỷ luật, đổi mới tư duy trong quản lý, nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh, gắn bó với cơ quan, đơn vị, từ đó tạo không khí đoàn kết, lao động với hiệu quả và chất lượng cao.
Các cấp Công đoàn đã tập trung tuyên truyền giáo dục trên các lĩnh vực: các Nghị quyết của Đảng, Công đoàn cấp trên, pháp luật, chính sách, chế độ của Nhà nước; tuyên truyền và vận động cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên công đoàn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
3.6.Phong trào thi đua yêu nước lao động sáng tạo trong cán bộ, công chức viên chức và người lao động đều được gắn với cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức “Trung thành - Sáng tạo - Tận tuỵ - Gương mẫu”. Việc tổ chức các phong trào thi đua ngày càng đi vào nền nếp, từ khâu phát động, đăng ký thi đua, kiểm tra đánh giá đến tổng kết khen thưởng và nhân rộng điển hình tiên tiến.
Công tác tổ chức, phát động phong trào thi đua của các cấp công đoàn đã có sự chủ động, sáng tạo và đạt được những kết quả khích lệ. Các cấp công đoàn đã tổ chức, hưởng ứng và cụ thể hóa các phong trào thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo” do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phát động và phong trào thi đua “Xây dựng cơ quan văn hóa, ngày làm việc 8 giờ chất lượng hiệu quả” do Công đoàn Viên chức Việt Nam phát động vào thực tiễn hoạt động ở đơn vị.
Các phong trào thi đua tại các công đoàn cơ sở đều được gắn với các ngày lễ lớn của dân tộc, các sự kiện trọng đại của đất nước và của ngành, gắn với cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức “Trung thành - Sáng tạo - Tận tụy - Gương mẫu”, với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và đặc biệt là 8 chữ mà Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân tặng cho cán bộ Công đoàn của Bộ: “Kỷ luật - Mẫn cán - Trí tuệ - Nhân ái”.
Các phong trào thi đua do Công đoàn phát động đều gắn kết các nội dung, tiêu chí thi đua với các phong trào thi đua do ngành, cơ quan, đơn vị phát động. Qua các phong trào thi đua, đã có hàng ngàn sáng kiến cải tiến trong quản lý, công tác chuyên môn, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ được chính quyền và công đoàn các đơn vị ghi nhận, làm lợi nhiều tỷ đồng, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn.
Từ các phong trào thi đua trong nhiệm kỳ qua, Công đoàn Bộ đã có nhiều cá nhân và tập thể điển hình tiên tiến xuất sắc. Trong 10 năm, đã có hàng trăm tổ chức công đoàn và đoàn viên công đoàn được tặng cờ và bằng khen của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Công đoàn Viên chức Việt Nam. Với kết quả hoạt động, hàng năm Công đoàn Bộ KH&CN đã được nhận các hình thức khen thưởng:
-Năm 2005: Cờ đơn vị xuất sắc của Công đoàn Viên chức Việt Nam;
-Năm 2006: Bằng khen của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
-Năm 2007: Bằng khen của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
-Năm 2008: Huân chương Lao động hạng Ba;
-Năm 2010: Bằng khen của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
-Năm 2011: Cờ đơn vị xuất sắc của Tổng Liên đoàn Lao độngViệt Nam;
-Năm 2012: Cờ đơn vị xuất sắc của Công đoàn Viên chức Việt Nam;
-Năm 2013: Cờ đơn vị xuất sắc của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
-Năm 2014: Huân chương Lao động hạng nhì. Cờ đơn vị xuất sắc của Công đoàn Viên chức Việt Nam;
Từ kết quả đã đạt được có thể khẳng định, phong trào thi đua trong các cấp công đoàn luôn được quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo, Đảng ủy Bộ, Công đoàn Viên chức Việt Nam và sự chỉ đạo hỗ trợ, tạo điều kiện của cấp ủy Đảng, thủ trưởng đơn vị và đạt được nhiều kết quả tốt, thu hút đông đảo cán bộ, công chức, viên chức và người lao động tự giác tham gia, trở thành động lực thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần thiết thực, hiệu quả thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.7. Công tác nữ công đã được các cấp Công đoàn quan tâm và tạo điều kiện hoạt động. Ban Nữ công đã xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động cho cả nhiệm kỳ gắn với cuộc vận động xây dựng người phụ nữ “Giỏi việc nước - đảm việc nhà” và hướng vào chủ đề “Xây dựng văn hóa công sở trong nữ công đoàn viên”. Hàng năm xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể để triển khai chương trình của nhiệm kỳ, cụ thể như:
-Phong trào “Giỏi việc nước - Đảm việc nhà” được phát động và bình xét thi đua và tổ chức lễ biểu dương, khen thưởng vào dịp ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3) hoặc ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10) hàng năm, tổ chức các hoạt động thiết thực và thích hợp với điều kiện của từng đơn vị tổ chức nói chuyện chuyên đề “Phụ nữ khoa học công nghệ với văn hóa tâm linh”; tổ chức hội nghị chuyên đề về “Giao tiếp và ứng xử trong gia đình”, “Kỹ năng giao tiếp và ứng xử trong công sở” cho các cán bộ nữ công các cấp trong Công đoàn Bộ; tổ chức các chuyến thăm quan di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, đi thăm và tặng quà trường hợp khó khăn; tổ chức các hội thi “Phụ nữ Khoa học và công nghệ với bữa cơm gia đình cuối tuần”; “Kết nối yêu thương”. Qua phong trào đội ngũ nữ cán bộ, công chức, viên chức, lao động không ngừng trưởng thành, xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân điển hình được các cấp khen thưởng.
-Tổ chức phổ biến các Nghị quyết của Đảng, Luật Bình đẳng giới, các chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới và đối với phụ nữ cho cán bộ nữ các cấp; tích cực tham gia các hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ, các chi hội nữ trí thức...
3.8.Công tác tài chính, công tác quản lý ngân sách công đoàn luôn được các cấp công đoàn quan tâm thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Tổng Liên đoàn và Công đoàn Viên chức Việt Nam. Hàng năm Ban Tài chính tham mưu cho Ban Thường vụ ban hành các văn bản hướng dẫn công tác tài chính, đôn đốc các công đoàn cơ sở lập báo cáo dự toán và quyết toán, tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ công tác tài chính công đoàn.
Các nguồn quỹ của Công đoàn Bộ cũng như Công đoàn các cấp đã được sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích, tiết kiệm, tuân thủ các thủ tục chi tiêu của hệ thống tổ chức Công đoàn. Việc quản lý thu chi được thể hiện qua sổ sách kế toán đầy đủ, công tác kiểm tra tài chính được thực hiện thường xuyên.
3.9.Công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện: Thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XVII, Ban Chấp hành Công đoàn Bộ KH&CN đã bám sát vào chương trình công tác nhiệm kỳ. Hàng năm lựa chọn những vấn đề trọng tâm để chỉ đạo thực hiện; tập trung hướng dẫn, chỉ đạo các công đoàn trực thuộc lập kế hoạch, đề ra giải pháp tổ chức phong trào trong cán bộ, công chức, viên chức, lao động. Tập trung kiện toàn bộ máy, tăng cường tổng kết rút kinh nghiệm, nắm bắt và xử lý các kiến nghị của cơ sở, hướng các hoạt động trực tiếp về cơ sở.
Các công đoàn cơ sở đều xây dựng chương trình, kế hoạch và biện pháp tổ chức triển khai phù hợp với tình hình cơ quan, đơn vị mình, đồng thời xây dựng các quy chế phối hợp giữa công đoàn với chính quyền, đoàn thể trong cơ quan, đơn vị. Thông qua đó đề cao vai trò trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo của các đồng chí trong Ban Chấp hành và Chủ tịch Công đoàn các cấp. Đề cao công tác thông tin báo cáo, ứng dụng công nghệ thông tin giúp các công đoàn nhận và gửi văn bản nhanh chóng, kịp thời. Việc tiếp nhận và phổ biến văn bản tới các công đoàn trực thuộc thực hiện đầy đủ, kịp thời.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động công tác của Công đoàn Bộ còn có những hạn chế, khuyết điểm, đó là: Chưa có giải pháp thật sự hữu hiệu để nắm bắt kịp thời chuyển biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên công đoàn; Công tác tuyên truyền, giáo dục ở một số cơ sở chưa được đổi mới kịp thời, chất lượng chưa cao, hình thức tổ chức đôi khi chưa hấp dẫn, chưa phù hợp với các đối tượng; Phong trào thi đua ở một số nơi còn mang tính hình thức, nội dung chưa sâu sát; Công tác bình xét thi đua, khen thưởng ở một số đơn vị còn nặng về bình quân chủ nghĩa. Việc đánh giá, xếp loại công đoàn các cấp hàng năm không sát với thực chất hoạt động của công đoàn cơ sở; Việc phân công, phân cấp chỉ đạo hoạt động ở một số công đoàn cơ sở còn chưa sâu sát; Quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ tham mưu, nghiên cứu, xây dựng tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách ở một số bộ phận cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) hiệu quả chưa cao; Công tác tham gia cải cách hành chính, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực còn hạn chế; Chưa có đột phá trong công tác chỉ đạo; chế độ, chính sách, sự quan tâm đối với cán bộ công đoàn của các cấp ủy Đảng, thủ trưởng cơ quan chưa đúng mức nên khó thu hút cán bộ giỏi chuyên tâm làm công tác công đoàn.
Những hạn chế trong lãnh đạo, thực hiện của Công đoàn Bộ KH&CN do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân chủ quan: Chưa tìm hiểu, vận dụng tốt vai trò, chức năng của tổ chức công đoàn nên các hoạt động chưa bám sát được nhiệm vụ chức năng của tổ chức công đoàn nhất là trong công tác giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với công đoàn viên; việc xây dựng và thực hiện qui chế phối hợp công tác giữa Thủ trưởng cơ quan và BCH Công đoàn ở một số ít công đoàn trực thuộc chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao. Vẫn còn một số đơn vị chưa xây dựng được qui chế phối hợp; đội ngũ cán bộ công đoàn hầu hết là kiêm nhiệm, thời gian dành cho công tác công đoàn không nhiều, phần lớn chưa được qua các lớp tập huấn nghiệp vụ công đoàn hoặc được tập huấn nhưng chưa nắm chắc nghiệp vụ, do đó ảnh hưởng phần nào đến kết quả hoạt động và hiệu quả công việc; công tác chỉ đạo thực hiện có lúc còn dàn trải, chưa tập trung đúng mức cho các công tác trọng tâm.
Nguyên nhân khách quan: Chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ chế độ, chính sách và quan tâm đúng mức đối với cán bộ công đoàn nên chưa thu hút được những người có năng lực, tâm huyết vào làm cán bộ công đoàn; một số quy định của pháp luật liên quan đến cán bộ, đoàn viên và hoạt động công đoàn không được thực thi nghiêm, hoặc thiếu tính khả thi nhưng chậm được sửa đổi, gây khó khăn cho hoạt động công đoàn.
Từ những thành công, chưa thành công, có thể rút ra một số kinh nghiệm quý báu:
-Nắm vững chức năng, nhiệm vụ tổ chức Công đoàn; bám sát đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, điều kiện của từng cơ quan, đơn vị để xây dựng nội dung, phương pháp hoạt động thích hợp.
-Cần làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục để cán bộ, công chức, viên chức và người lao động có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và trong xây dựng tổ chức công đoàn.
-Tăng cường và tranh thủ sự lãnh đạo, quan tâm của các cấp uỷ Đảng; sự phối hợp tạo điều kiện của các cấp chính quyền; sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể trong việc tổ chức có hiệu quả các hoạt động của Công đoàn.
-Gắn chặt giữa yêu cầu của các phong trào thi đua chung của Bộ và của đơn vị với cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức “Trung thành - Sáng tạo - Tận tuỵ - Gương mẫu” phù hợp với đặc điểm, đặc thù của đội ngũ CBCCVC, tạo động lực hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; tăng cường các hoạt động xã hội và có nhiều hình thức phong phú, phù hợp để thu hút đông đảo CBCCVC lao động tham gia hoạt động công đoàn.
-Thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có trình độ, năng lực, nhiệt tình, bản lĩnh, có kỹ năng hoạt động. Chăm lo và thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ với cán bộ công đoàn.
Tóm lại trong 10 năm qua, Công đoàn Bộ KH&CN đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên các lĩnh vực, thực hiện tốt các chỉ tiêu Đại hội XVII đề ra. Hoạt động của các cấp công đoàn có nhiều khởi sắc, hướng về cơ sở, thu hút đông đảo cán bộ, đoàn viên tham gia, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị, Bộ, Ngành và đóng góp vào thành tựu kinh tế xã hội của đất nước.
Những thành tích và kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ, Đảng ủy Bộ KH&CN và Công đoàn Viên chức Việt Nam; sự quan tâm, phối hợp, tạo điều kiện của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trong Bộ. Sự thành công trong 10 năm còn là kết quả của mối quan hệ chặt chẽ, sâu sát giữa tập thể Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Công đoàn Bộ với Ban Chấp hành các công đoàn trực thuộc. Và đặc biệt là thành quả nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Bộ KH&CN.
KẾT LUẬN
Trong 55 năm xây dựng và phát triển (1959-2014), Công đoàn Bộ KH&CN đã trải qua nhiều dấu mốc lịch sử, từng bước phát triển và đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận.
Các cán bộ công đoàn viên chức Bộ KH&CN đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên nhiều lĩnh vực. Những thành tích và Công đoàn Bộ KH&CN đạt được thể hiện sự trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, chính vì thế vai trò, vị thế của Công đoàn Bộ KH&CN ngày càng được nâng lên, các công đoàn viên trực thuộc Công đoàn Bộ KH&CN ngày càng tin tưởng, gắn bó với Công đoàn Bộ.
Từ năm 1959 đến năm 2014 là một khoảng thời gian tương đối dài gắn liền với sự phát triển đi lên của Bộ KH&CN, nhưng đó là chặng đường đáng ghi nhớ của đội ngũ cán bộ, công đoàn viên các cơ sở trực thuộc. Đây chính là những năm đặt nền móng và là động lực để Công đoàn Bộ KH&CN tiếp tục vững bước đi lên và đạt được nhiều thành tích, góp phần xứng đáng vào thắng lợi các Nghị quyết của Đảng và các Nghị quyết của Công đoàn Viên chức Việt Nam.
Những kết quả và thành tích đạt được trong hơn 50 năm là sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng của các thế hệ cán bộ, đoàn viên các cấp trực thuộc Công đoàn Bộ KH&CN; sự quan tâm và chỉ đạo sát sao, trực tiếp của Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ, Đảng ủy Bộ KH&CN; sự quan tâm phối hợp của các Bộ, ban, ngành trung ương và địa phương trong suốt chặng đường 55 năm xây dựng và phát triển. Đây chính là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của Công đoàn Bộ KH&CN trong chặng đường sắp tới.
KỶ YẾU CÔNG ĐOÀN BỘ KH&CN: 55 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN /Images/editor/files/KyYeu.pdf