Về câu hỏi của độc giả Ninh Xuân Hưng (email: xuanhuyjp@gmail.com), xin có ý kiến trao đổi như sau:
Doanh nghiệp ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ vào trước ngày 01/7/2018, khi đó theo Luật Chuyển giao công nghệ 2006, Daonh nghiệp có quyền đăng ký hoặc không đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ với cơ quan quản lý có thẩm quyền.
Sau khi Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 đã có hiệu lực (kể từ ngày 01/7/2018), các bên có nhu cầu gia hạn hợp đồng nói trên sau khi hết thời hạn 5 năm lần 2 (vào năm 2020) và do doanh nghiệp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt nam nên phải đăng ký gia hạn, sửa đổi, bổ sung nội dung chuyển giao công nghệ theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Luật Chuyển giao công nghệ và khoản 1 Điều 42 Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ. Hồ sơ đăng ký gia hạn, sửa đổi, bổ sung nội dung chuyển giao công nghệ được thực hiện theo khoản 2 Điều 33 Luật Chuyển giao công nghệ.
Lưu ý: do hợp đồng có điều khoản tự động gia hạn nên hợp đồng được coi là văn bản gia hạn giữa các bên. Khi đó, hết thời gian gia hạn 5 năm, các bên lại phải làm thủ tục đăng ký gia hạn tiếp cho chu kỳ 5 năm tiếp theo theo quy định của pháp luật. Do vậy, đề nghị doanh nghiệp cân nhắc giữa phương án liên tục phải làm thủ tục đăng ký gia hạn chuyển giao công nghệ với phương án nếu các bên tiếp tục có nhu cầu chuyển giao công nghệ lâu dài thì thực hiện thanh lý hợp đồng đã ký trước đây, lập hợp đồng chuyển giao công nghệ mới và đăng ký theo quy định hiện hành.